ĐÁNH GIÁ BỎNG TẠI CƠ SỞ Y TẾ
Tài liệu tham khảo từ hãng L&R: Burns General Information Dr_Alexey (Xem chi tiết)
Trước khi đánh giá vết bỏng, cần làm sạch vết thương bằng nước và xà phòng không mùi để loại bỏ mô chết và các mảnh vụng (Có thể dùng Gạc làm sạch vết thương Debrisoft) để có thể đánh giá chính xác vết thương, đồng thời đánh giá mức độ sâu của vết thương (International Best Practice Guidelines, 2014)
Có thể cần phá vỡ bóng nước và làm sạch vết thương trước khi có thể đánh giá được nền của vết thương. Các quy trình này được thảo luận chi tiết hơn trong phần Quản lý bỏng. Đánh giá bỏng nên tập trung vần đề:
- Nguyên nhân bỏng
- Vị trí bỏng
- Kích thước bỏng
- Độ sâu vết bỏng
I. NGUYÊN NHÂN BỎNG
Xác định nguyên nhân gây bỏng, ví dụ: nhiệt, điện hoặc hóa chất, rất quan trọng vì nó sẽ hướng dẫn các quyết định quản lý vết bỏng. Ví dụ, vết bỏng do hóa chất có thể yêu cầu các chất nền cụ thể để làm sạch vùng da bị tác nhân hóa học. Nếu vết bỏng được coi là một chấn thương không phải do tai nạn, thì điều này cũng có ý nghĩa đối với việc chăm sóc bệnh nhân (Lovelle và Nambiran, 2005).
II. VỊ TRÍ BỎNG
Các vết bỏng ở mặt, bàn tay, bàn chân, cơ quan sinh dục, các cơ gấp và nách có nguy cơ để lại sẹo ảnh hưởng đến thẩm mỹ của bệnh nhân hoặc có thể làm giảm vận động và các chức năng khác. Nguy cơ cao có biến chứng như nhiễm trùng. Khi xảy ra các vết bỏng ở những vị trí này bất kể độ sâu như thế nào thì cũng nên chuyển đến cơ quan y tế chuyên khoa bỏng để quản lý. (Lovelle và Nambiran, 2015).
III. KÍCH THƯỚC VẾT BỎNG
Kích thước vết bỏng được mô tả bằng phần trăm tổng diện tích bề mặt cơ thể (TBSA). Có một số cách để đo kích thước vết bỏng gồm:
- Bề mặt Palmar
- Quy tắc số chín của Wallace
- Lund và Browder
♦ Tính kích thước bỏng theo phương pháp Palmar:
Một trong những phương pháp đơn giản nhất hiện có, phương pháp bề mặt Palmar giả định rằng lòng bàn tay và ngón tay của bệnh nhân chiếm 1% tổng diện tích của cơ thể (TBSA). Nó thường được sử dụng nhất để đánh giá nhanh các vết bỏng nhỏ, hoặc đánh giá nhanh một vùng da còn nguyên vẹn trong các trường hợp bỏng nặng, lan rộng. Vì trên vết bỏng nặng việc đo vết bỏng vừa là không chính xác, và có thể dẫn đến đánh giá quá mức kích thước 10 - 20% (Benson, 2006; Hettiaratchy và Papini, 2004; international Best Practice Guidelines, 2014; Love và Nambiran, 2015).
♦ Quy tắc số chín của Wallace
Phương pháp này chia cơ thể những bộ phận 9%, cho phép đánh giá nhanh phần trăm diện tích bỏng bề mặt cơ thể. Nó cung cấp một cách nhanh chóng và dễ dàng để tính kích thước vết bỏng ở người lớn nhưng không chính xác ở trẻ em. Nó được sử dụng chủ yếu bên ngoài môi trường bệnh viện (Benson, 2006; Hettiaratchy và Papini, 2004; International Best Practice Guidelines, 2014; Lovelle và Nambiran, 2015).
♦ Phương pháp Lund và Browder
Phương pháp được coi là chính xác nhất và được sử dụng chủ yếu trong bệnh viện. Tuy nhiên cần có thời gian ghi lại và tính toán. Sử dụng một biểu đồ để đánh giá tỷ lệ phần trăm da bị tổn thương. Vào độ tuổi 0, 1, 5, 10, 15 và người lớn thì tỷ lệ phần trăm da bề mặt cơ thể thay đổi và cũng thay đổi trong quá trình tăng trưởng (Benson, 2006; Hettiaratchy và Papini, 2004; International Best Practice Guidelines, 2014; Lovelle và Nambiran, 2015).
IV. ĐỘ SÂU VẾT BỎNG
Đánh giá lâm sàng được sử dụng để xác định độ sâu vết bỏng, được phân loại theo các lớp da bị tổn thương; ví dụ, chỉ tổn thương lớp biểu bì cùng với lớp trên của lớp trung bì, hoặc toàn bộ da và mô dưới da.
1. Tổn thương bề ngoài lớp biểu bì - Độ I
Chỉ là tổn thương lớp trên cùng của da là lớp biểu bì. Da thường có màu đỏ đồng nhất hoặc màu hồng nhạt, với các mao mạch tái tạo nhanh chóng. Cơ thể khi bị va chạm thường xuất hiện bóng nước lớn hoặc da dễ dàng bong ra (Edwards, 2013). Da rất đau khi tiếp xúc. Các vết bỏng kiểu này thường lành trong vòng 3 đến 4 ngày, không để lại sẹo (Benson và cộng sự, 2006; Hettiaratchy và Papini, 2004; International Best Practice Guidelines, 2014).
2. Tổn thương lớp trung bì - Độ II
Các vết bỏng từ bề ngoài kéo qua lớp biểu bì đến phần giữa của lớp trung bì. Các vết bỏng thường dày có màu hồng, có thể có lốm đốm, ẩm ướt và đau đớn và thường có bóng nước. Quá trình tái tạo mao mạch chậm hơn bình thường. Thường lành trong vòng 2 đến 3 tuần, có thể để lại sẹo hoặc suy giảm chức năng. Nếu quá trình lành thương không xảy ra trong khoảng thời gian này thì nên đánh giá lại độ sâu ban đầu có thể đã được đánh giá không chính xác (Hettiaratchy và Papini, 2004; Edwards, 2013; Stiles, 2015).
3. Tổn thương sâu hết lớp trung bì - Độ III
Vết thương sâu kéo dài đến hết lớp trung bì. Da thường nhợt nhạt và có đốm, lốm đốm màu hồng và trắng, khô hoặc màu đỏ anh đào xuất hiện. Quá trình tái tạo các mao mạch diễn ra chậm ở những vết bỏng này. Tùy thuộc mức độ bỏng vết thương có thể đau hoặc có thể không đau, có thể có bóng nước. Trong một số trường hợp, bỏng sâu hết lớp trung bì có thể khó phân biệt với bỏng dầy sâu. Vết thương bỏng sâu, nếu không bị nhiễm trùng, thường sẽ lành trong 3- 8 tuần, nhưng có thể để lại sẹo nghiêm trọng, co lại và mất chức năng. Nếu vết bỏng có một phần vẫn chưa lành trong 3 tuần hoặc không lành, có thể phải phẫu thuật cắt bỏ và ghép da (Hettiaratchy và Papini, 2004; Edwards, 2013; Stiles, 2015).
4. Bỏng dầy sâu - Độ IV
Vết bỏng dầy sâu qua toàn bộ lớp trung bì và các cấu trúc bên dưới. Những vết bỏng này thường bị cháy thành than, có màu trắng hoặc đen, khô và có màu da hoặc dạng sáp. Không gây đau vì các dây thần kinh đã bị phá hủy nhưng có thể xuất hiện cơn đau xung quanh mép vết thương. Không còn quá trình tuần hoàn của mao mạch cung cấp máu. Một số vết bỏng sâu này toàn bộ bề mặt có màu đỏ, nhưng chúng có thể được phân biệt với vết bỏng bề ngoài vì chúng không ẩm và không chuyển sang màu nhợt khi ấn. Bởi vì tất cả các phần phụ của da đều bị bỏng, vết bỏng độ này chỉ có thể lành lại bằng cách co lại hoặc di chuyển tế bào sừng từ các cạnh của vết thương. Do đó, tất cả các vết thương sâu như thế này phải được điều trị bằng cắt bỏ và ghép trừ vết bỏng nhỏ. (Benson và cộng sự, 2006; Hettiaratchy và Papini, 2004; International Best Practice Guidelines, 2014).
Nhìn chung bỏng bề ngoài và bỏng sâu đều dễ dàng đưa ra các quyết định điều trị. Tuy nhiên xác định bỏng sâu ngay sau khi bị thương thường khó. Độ sâu của vết bỏng có thể tăng lên theo thời gian nên điều quan trọng là phải đánh giá lại sau mỗi 24 - 72 giờ. Trong vài ngày đầu sau bỏng, dễ dàng xác định vết thương có khả năng lành, không cần ghép và vết thương nào đã sâu và cần chuyển tuyến trên (Stiring và cộng sự, 2010).
V. QUẢN LÝ BỎNG
1.Quản lý đau
Sự hiện diện của cơn đau cho thấy rằng các sợi thần kinh có trong da bị lộ ra ngoài. Vết bỏng bề ngoài có thể rất đau. Tất cả bệnh nhân bị bỏng lớn nên được giảm đau bằng Morphin tiêm tĩnh mạch với liều lượng phù hợp với trọng lượng cơ thể. Vết bỏng rất sâu không gây đau vì các sợi thần kinh đã bị đốt hết, nhưng có thể cảm thấy đau ở rìa vết thương. Nên cho bệnh nhân giảm đau thích hợp trước khi tiến hành đánh giá, theo phác đồ tại cơ sở y tế (Hướng dẫn Thực hành tốt nhất Quốc tế, 2014).
Hầu hết các trường hợp bỏng có thể được quản lý hiệu quả tại cộng đồng hoặc các bệnh viện đa khoa. Tuy nhiên, các trường hợp bỏng nặng đặc biệt nên chuyển ngay đến đơn vị chuyên khoa bỏng.
- Diện tích bỏng lớn:
> 10% TBSA (tổng diện tích bề mặt cơ thể) ở trẻ em (5% ở trẻ em dưới 1 tuổi)
> 15% TBSA ở người lớn.
Bỏng dầy sâu ở mọi lứa tuổi và mọi mức độ.
Bỏng sâu đến lớp trung bì > 5% TBSA ở người lớn và tất cả các vết bỏng sâu ở da ở trẻ em.
- Cơ chế chấn thương:
Tuổi (<5 hoặc> 60 tuổi) (NICE, 2015)
Vị trí vết thương: mặt, tay, cơ quan sinh dục, đáy chậu
Bề mặt uốn cong: cổ, nách, trước khuỷu tay hoặc sau đầu gối
Bỏng sâu theo chu vi ở mọi lứa tuổi
Nghi ngờ chấn thương đường hô hấp
Mắc các bệnh nền
Vết bỏng nhiễm trùng
Bệnh nhân cần hỗ trợ phục hồi chức năng lâu dài
Vết bỏng không lành hoặc không tiến triển như mong đợi.
2. Hội chứng sốc nhiễm trùng
Trẻ bị bỏng nhỏ <10% TBSA và có các dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng sốc nhiễm trùng trong 2-4 ngày sau khi bị thương, bao gồm sốt, phát ban, tiêu chảy và nôn mửa, khó chịu, buồn ngủ, bú kém, phục hồi mao mạch> 3 giây, nhịp tim nhanh và thở nhanh , nên được phát hiện ngay lập tức. Trẻ em dưới 2 tuổi đặc biệt nhạy cảm và một khi bị shock thì tỷ lệ tử vong có thể lên tới 50% (international Best Practice Guidelines, 2014).
Nhóm dịch thuật Công ty TNHH Đạt Phú Lợi
CNĐD. Trần Thị Thu Trang
- CA LÂM SÀNG - BỎNG ĐỘ II DO DẦU ĂN(01/12/2021)
- ĐỊNH NGHĨA VÀ NGUYÊN NHÂN BỎNG(21/08/2020)
- SINH LÝ BỆNH BỎNG(22/08/2020)
- NGUYÊN TẮC SƠ CỨU BỎNG(24/08/2020)
- ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG BỎNG TẠI NƠI XẢY RA TAI NẠN(24/08/2020)
- NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ LÀM LÀNH VẾT THƯƠNG BỎNG(01/06/2021)
- QUY TRÌNH KỸ THUẬT ĐIỀU TRỊ BỎNG(02/07/2021)
- CÁC TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG DEBRISOFT ĐỂ GIẢM SẸO DO BỎNG(19/08/2021)
- CA LÂM SÀNG - VẾT BỎNG BÔ XE HOẠI TỬ ĐEN BẮP CHÂN PHẢI(14/10/2021)